Chỉ số kinh tế quan trọng của vùng ĐBSH – “Khu vực kinh tế thịnh vượng”

Đồng bằng sông Hồng là một vùng đất phồn thịnh và chiến lược nằm ở phía Bắc Việt Nam. Với nền kinh tế phát triển và tập trung nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng bằng sông Hồng đã khẳng định vị thế mạnh mẽ và thịnh vượng trong số những vùng đất phát triển hàng đầu tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của khu vực này. 

Bài viết dưới đây Sen Vàng Group sẽ đi sâu vào khám phá các chỉ số kinh tế quan trọng của Đồng bằng sông Hồng, từ tăng trưởng GDP, sản xuất công nghiệp, đầu tư đến các thách thức và cơ hội trong việc phát triển kinh tế của vùng này.

Bức tranh PCI (Chỉ số cạnh tranh) vùng Đồng bằng sông Hồng

Biểu đồ trình bày xếp hạng chỉ số PCI của các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng trong 3 năm 2020, 2021 và 2022. PCI là một chỉ số đánh giá mức độ hấp dẫn đối với doanh nghiệp và người dân về môi trường đầu tư và kinh doanh của một tỉnh.

Từ biểu đồ trên, Quảng Ninh và Hải Phòng là 2 tỉnh thành giữ vững vị trí hàng đầu với xếp hạng 1 và 2 trong cả 3 năm, chứng tỏ sự ổn định và sự phát triển tốt về môi trường kinh doanh. Bắc Ninh và Vĩnh Phúc cũng có sự thăng tiến, giữ vị trí trong top 5 tỉnh có PCI cao nhất trong vùng.

Trong khi đó, Hưng YênHà Nội có sự biến động xếp hạng, nhưng vẫn giữ vị trí trong top 5. Các tỉnh khác như Thái Bình, Nam Định, Hải Dương và Ninh Bình cũng đạt điểm số tốt, giữ vị trí ổn định trong top 10.

Tuy nhiên, có một số tỉnh như Hà Nam đã có sự thoái lui trong xếp hạng, từ top 5 xuống dưới top 10. Điều này có thể phản ánh những thách thức trong việc cải thiện môi trường kinh doanh và thu hút đầu tư vào tỉnh này.

Tổng quan, bảng số liệu cho thấy các tỉnh trong Đồng bằng sông Hồng đều có sự phát triển và nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và đầu tư, từ đó đóng góp vào sự phát triển kinh tế và xã hội của vùng và cả nước.

PCI các tỉnh Đồng Bằng Sông Hồng năm 2022

Dựa theo kết quả Báo cáo PCI 2022, bức tranh tổng quan về sự phát triển kinh tế của các tỉnh trong Đồng bằng sông Hồng được hiện rõ. Tỉnh Quảng Ninh và Hải Phòng nổi bật với điểm số cao nhất và xếp hạng hàng đầu cả về tổng quan cả nước lẫn trong Đồng bằng sông Hồng. Những thành tích này phần nào phản ánh sự đầu tư và phát triển mạnh mẽ của hai tỉnh này trong lĩnh vực công nghiệp và du lịch.

Bắc Ninh và Vĩnh Phúc cũng xuất sắc với điểm số cao, xếp hạng trong top 5 của vùng. Sự phát triển của hai tỉnh này chủ yếu nhờ vào sự thu hút đầu tư và sự phát triển các khu công nghiệp và khu chế xuất, thu hút nguồn vốn nước ngoài và thúc đẩy sản xuất công nghiệp.

Tuy nhiên, Ninh Bình lại có điểm số thấp nhất trong vùng. Điều này có thể phản ánh những khó khăn và thách thức trong quá trình phát triển kinh tế và xã hội của tỉnh này, cần có sự đầu tư và hỗ trợ để nâng cao hiệu suất sản xuất và cải thiện điều kiện sống cho người dân. Sự chênh lệch giữa các tỉnh thể hiện sự đa dạng về phát triển kinh tế và xã hội trong khu vực Đồng bằng sông Hồng, và cần có các giải pháp và chính sách phù hợp để đẩy mạnh sự phát triển bền vững của toàn vùng.

Chỉ số GRDP

Trong giai đoạn 2005-2020, tăng trưởng kinh tế của vùng Đồng bằng sông Hồng đã vượt trội hơn so với bình quân cả nước, đạt mức 7,94% mỗi năm (so với 6,36% của cả nước). Quy mô kinh tế của vùng đã tăng lên gấp 7,75 lần so với năm 2005, chiếm 29,4% tổng GDP của cả nước và đứng thứ 2 sau Vùng Đông Nam Bộ. Đáng chú ý, GRDP bình quân đầu người đạt 103,6 triệu đồng/năm, vượt trội so với bình quân cả nước (141,3 triệu đồng/năm của Vùng Đông Nam Bộ).

Ngoài ra, cơ cấu chuyển dịch của kinh tế vùng cũng diễn ra nhanh chóng, với tỉ trọng ngành công nghiệp và xây dựng cũng như dịch vụ lần lượt đạt 40,62% và 40,64% vào năm 2020. Các ngành công nghiệp mũi nhọn đang phát triển theo hướng hiện đại, quy mô lớn, ít thâm dụng lao động và sử dụng công nghệ cao. Đặc biệt, kinh tế biển của vùng cũng đạt sự phát triển đáng kể, với Hải Phòng và Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế biển và dịch vụ cảng biển quan trọng của cả nước.

Ngày 23/11/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 30-NQ/TW về “VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI VÀ BẢO ĐẢM QUỐC PHÒNG, AN NINH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG ĐẾN NĂM 2030, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2045” nhằm tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của vùng ĐBSH trên tất cả các lĩnh vực… 

Theo như mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết, phấn đấu đạt đến năm 2030, trong đó có một số chỉ tiêu quan trọng như: Tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021-2030 đạt khoảng 9%, đến năm 2030; GRDP vùng tăng khoảng 3 lần so với năm 2020 (giá hiện hành); GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 274 triệu đồng/năm; tốc độ tăng năng suất lao động bình quân đạt trên 7%; tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm khoảng 1,5%/năm. Đạt 32 giường bệnh và 11 bác sĩ/vạn dân. Giảm 9% lượng phát thải khí nhà kính.

Dữ liệu chỉ số GRDP vùng năm 2022 

Hà Nội là tỉnh có GRDP cao nhất, đạt mức 1,197,332 tỷ VNĐ. Trong khi đó, Hải Phòng và Quảng Ninh lần lượt đứng thứ hai và ba với GRDP là 366,000 tỷ VNĐ và 269,246 tỷ VNĐ. Đây là những tỉnh đóng góp lớn vào sản xuất kinh tế của khu vực Đồng bằng sông Hồng.

Biểu đồ cho thấy sự chênh lệch rõ rệt về sản xuất kinh tế và thu nhập giữa các tỉnh trong khu vực Đồng bằng sông Hồng. Các tỉnh đang có sự phát triển tốt hơn có khả năng hút đầu tư, thu hút nguồn lực lao động và tạo nhiều cơ hội việc làm, trong khi các tỉnh khác có thể cần nỗ lực để cải thiện môi trường kinh doanh và đẩy mạnh phát triển kinh tế bền vững.

GRDP bình quân đầu người

Trong giai đoạn từ năm 2021 đến 2022, Đồng bằng sông Hồng đã ghi nhận mức tăng trưởng tích cực trong GRDP bình quân đầu người. Hầu hết các tỉnh đều có sự tăng trưởng trong chỉ số này, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế vùng.

Các tỉnh thành có mức GRDP bình quân đầu người cao nhất là Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh. Những tỉnh này đóng góp lớn vào sản phẩm kinh tế vùng và đạt những kết quả ấn tượng trong việc tăng cường phát triển kinh tế và thu hút đầu tư.Một số tỉnh như Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình đã ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ về GRDP bình quân đầu người. Điều này cho thấy những nỗ lực và chính sách hỗ trợ mạnh mẽ từ các tỉnh này để thúc đẩy phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân.

Mặt khác, một số tỉnh như Hưng Yên và Hà Nam có sự biến động nhỏ trong GRDP bình quân đầu người giữa hai năm. Điều này có thể phản ánh sự ổn định hoặc khó khăn trong việc duy trì tăng trưởng kinh tế.

Tổng thể, thông qua biểu đồ cho thấy sự chênh lệch về phát triển kinh tế giữa các tỉnh trong Đồng bằng sông Hồng. Các tỉnh có mức GRDP cao hơn thể hiện sự phát triển mạnh mẽ và thu hút đầu tư, trong khi các tỉnh có GRDP thấp hơn có thể đối diện với nhiều thách thức và cần nỗ lực hơn để cải thiện môi trường kinh doanh và đẩy mạnh phát triển kinh tế. Điều này đặt ra sự chú trọng trong việc xây dựng chính sách và giải pháp hỗ trợ phù hợp, nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của toàn vùng.

Chỉ số cơ sở hạ tầng

Từ bảng số liệu, có thể thấy Quảng Ninh xếp hạng đầu tiên cả về so với ĐBSH và so với cả nước, cho thấy tỉnh này có cơ sở hạ tầng tốt nhất trong vùng Đồng bằng sông Hồng và trên toàn quốc.

Hà Nội và Hải Phòng xếp hạng thứ hai và thứ ba so với ĐBSH, tương ứng xếp hạng thứ tư và thứ bảy so với cả nước. 

Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và Hà Nam cũng xếp hạng trong top 10 so với cả ĐBSH và cả nước, cho thấy cơ sở hạ tầng của các tỉnh này cũng đạt mức khá cao.

Ninh Bình, Nam Định và Hưng Yên xếp hạng trong top 11 đến 51 so với cả ĐBSH và cả nước. Tuy nhiên, cần chú ý rằng vẫn còn một số tỉnh có cơ sở hạ tầng tốt hơn nhiều so với các tỉnh này.

Bảng số liệu cho thấy sự chênh lệch về cơ sở hạ tầng giữa các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Hồng. Một số tỉnh có cơ sở hạ tầng rất tốt, trong khi các tỉnh khác có thể cần nỗ lực để nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng để hỗ trợ phát triển kinh tế và xã hội bền vững. Điều này đòi hỏi sự đầu tư và quản lý hiệu quả trong phát triển hạ tầng của từng tỉnh.

FDI

Vùng Đồng bằng sông Hồng là một trong những khu vực kinh tế phát triển mạnh mẽ và thu hút nhiều dự án FDI (Đầu tư trực tiếp nước ngoài) của Việt Nam. Hà Nội, thủ đô của đất nước, là trung tâm tài chính, kinh tế và chính trị của vùng. Ngoài ra, Hải Phòng và Bắc Ninh cũng là hai địa phương quan trọng trong vùng với cơ sở hạ tầng phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài đáng kể. Với tiềm năng và cơ hội phát triển, vùng Đồng bằng sông Hồng tiếp tục là điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Hà Nội là trung tâm hút dẫn đầu tư nước ngoài: Với 7,019 dự án FDI và tổng vốn đầu tư đăng ký lên đến 38,743.150 triệu USD, Hà Nội là địa phương thu hút nhiều dự án FDI nhất trong vùng Đồng bằng sông Hồng. Sự hấp dẫn của Hà Nội đến từ vị trí địa lý thuận lợi, hạ tầng phát triển và môi trường đầu tư thuận lợi.

Hải Phòng và Bắc Ninh cũng là điểm thu hút đáng chú ý: Hải Phòng với 982 dự án FDI và tổng vốn đầu tư đăng ký là 25,274.130 triệu USD, trong khi Bắc Ninh có 1,819 dự án FDI và tổng vốn đầu tư đăng ký là 23,170.770 triệu USD. Cả hai địa phương này đều có lợi thế về địa lý và hạ tầng, thu hút nhiều nhà đầu tư đến đây.

Thị trường tiềm năng trong các tỉnh nhỏ hơn: Các tỉnh như Quảng Ninh, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình và Ninh Bình đều thu hút một số dự án FDI, tuy nhiên số lượng dự án và tổng vốn đầu tư đăng ký của họ chưa cao bằng các địa phương lớn. Tuy vậy, các tỉnh này vẫn có tiềm năng và cơ hội phát triển kinh tế từ các dự án FDI.

Sự chênh lệch giữa các địa phương: Bảng số liệu cho thấy sự chênh lệch rõ rệt giữa các địa phương về số lượng dự án FDI và tổng vốn đầu tư đăng ký. Sự hấp dẫn của mỗi địa phương đến từ những yếu tố riêng biệt như vị trí địa lý, hạ tầng, chính sách hỗ trợ và tiềm năng phát triển.Tổng thể, số liệu phân tích cho thấy vùng Đồng bằng sông Hồng vẫn là một địa điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và có tiềm năng phát triển kinh tế trong tương lai. Điều này đòi hỏi sự đầu tư và quản lý hiệu quả trong việc thu hút và duy trì các dự án FDI, từ đó đóng góp vào sự phát triển bền vững của vùng và cả nước.

Chỉ số HDI

HDI là Chỉ tiêu kinh tế – xã hội tổng hợp đo lường sự phát triển của con người trên 3 phương diện: Sức khỏe, giáo dục và thu nhập của quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa bàn địa phương của quốc gia, vùng lãnh thổ trong kỳ quan sát.

Theo số liệu thống kê năm 2020, xếp hạng chỉ số HDI của các tỉnh thuộc vùng ĐBSH có 6/11 tỉnh lọt vào top 10 cả nước. Trong đó có Hà Nội xếp hạng 1 chỉ số HDI.

Chỉ số sức khỏe 

Phần lớn các địa phương vùng Đồng bằng sông Hồng có tuổi thọ trung bình khoảng 74.5 và  tăng qua các năm. Có 3/11 tỉnh lọt vào top 20 tỉnh có tuổi thọ trung bình cao nhất cả nước đó là Hà Nội, Thái Bình, Hải Dương.

Chỉ số giáo dục

Trong 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương của cả nước, Vùng Đồng bằng sông Hồng có 7 địa phương nằm trong top 10 địa phương có chỉ số giáo dục cao nhất cả nước là: Hà Nội xếp thứ 1 cả nước, tiếp đến là Hài Phòng xếp thứ 3, Hưng Yên xếp thứ 5, Hải Dương xếp thứ 6, Bắc Ninh xếp thứ 7, Quảng Ninh xếp thứ 8 và Vĩnh Phúc xếp thứu 10

Chỉ số thu nhập

GRDP bình quân đầu người chiếm 29,4% tổng GDP của cả nước và đứng thứ 2 sau Vùng Đông Nam Bộ. Đáng chú ý, GRDP bình quân đầu người đạt 103,6 triệu đồng/năm, vượt trội so với bình quân cả nước (141,3 triệu đồng/năm của Vùng Đông Nam Bộ).

Chỉ số SCOLI

Chỉ số giá sinh hoạt theo không gian (viết tắt theo tiếng Anh là SCOLI) là chỉ tiêu tương đối (tính bằng %) phản ánh sự chênh lệch giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng phục vụ đời sống hằng ngày của người dân giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, giữa các vùng kinh tế – xã hội trong một thời gian nhất định (thường là một năm).

Năm 2022, thứ tự đắt đỏ giữa các vùng kinh tế không biến động so với năm 2021. Trong đó, vùng Đồng bằng sông Hồng tiếp tục giữ vị trí có giá cả đắt đỏ nhất cả nước. Vị trí thứ hai là vùng Trung du và miền núi phía Bắc với chỉ số SCOLI năm 2022 bằng 99,42%, tiếp theo là Đông Nam Bộ 98,62%, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 98,33%, Tây Nguyên 97,87% và cuối cùng là vùng Đồng bằng sông Cửu Long với 94,85%.

Trong 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hà Nội tiếp tục giữ vị trí dẫn đầu với mức giá đắt đỏ nhất cả nước năm 2022, Quảng Ninh đứng thứ 2 vớichỉ số SCOLI bằng 99,89% Hà Nội. Bên cạnh đó vùng Đồng bằng sông Hồng vẫn còn có tính Nam Định nằm trong top 5 tỉnh có chỉ số SCOLI thấp nhất cả nước.

Trong những năm gần đây, hạ tầng thương mại ngày càng phát triển, các phương thức giao dịch thương mại điện tử trở nên phổ biến, hệ thống phân phối đã đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số trong hoạt động quản lý, kinh doanh (thanh toán không dùng tiền mặt, triển khai các ứng dụng mua hàng trực tuyến, quản lý khách hàng…) để tăng sức cạnh tranh, mở rộng, tiếp cận khách hàng theo hướng đa chiều và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Giá hàng hóa công khai, minh bạch, dịch vụ vận chuyển hàng hóa nhanh chóng, do vậy mức giá hàng hóa giữa các vùng ngày càng đồng đều hơn khi các kênh bán hàng qua mạng phát triển, giá hàng hóa giữa các địa phương chủ yếu chỉ chênh lệch phần chi phí vận tải.

Tổng khách du lịch

Hà Nội đứng đầu với 18.70 triệu lượt khách và doanh thu lên đến 60,000 tỷ đồng. Thủ đô là trung tâm văn hóa, lịch sử và kinh tế của vùng, thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước. Những điểm tham quan như Hồ Hoàn Kiếm, Văn Miếu – Quốc Tử Giám, và khu phố cổ đều góp phần tạo nên sức hấp dẫn du lịch đặc biệt của Hà Nội.

Quảng Ninh là điểm đến hấp dẫn với 11.60 triệu lượt khách và doanh thu 25,172 tỷ đồng. Thành phố Hạ Long nổi tiếng với vịnh Hạ Long là một trong những khu du lịch biển đẹp nhất thế giới. Những cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, hang động, và bãi biển dài trải hấp dẫn hàng triệu du khách đến tham quan và nghỉ ngơi.

Các tỉnh nhỏ hơn như Nam Định, Bắc Ninh, và Hải Dương có số liệu du lịch thấp hơn, thể hiện cần phát triển các sản phẩm và dịch vụ du lịch để thu hút khách du lịch. Các điểm tham quan lịch sử, di tích văn hóa và làng nghề truyền thống có thể trở thành điểm đến hấp dẫn cho du khách.

Thái Bình là tỉnh có số liệu du lịch thấp nhất, chỉ 0.71 triệu lượt khách và doanh thu 3 tỷ đồng. Đây là dấu hiệu cần đẩy mạnh quảng bá và phát triển du lịch trong khu vực này. Các điểm tham quan tự nhiên như vùng đồng lúa, vùng biển, và các khu di tích lịch sử có tiềm năng để thúc đẩy du lịch tại đây.

Biểu đồ du lịch cho thấy vùng Đồng bằng sông Hồng có tiềm năng phát triển du lịch lớn. Tuy nhiên, cần đầu tư và phát triển các sản phẩm và dịch vụ du lịch đa dạng, khai thác tối đa tiềm năng du lịch đặc biệt của từng địa phương để thu hút khách du lịch và nâng cao doanh thu trong toàn vùng.

Thu ngân sách nhà nước

Hà Nội, với mức thu ngân sách cao nhất là 332.300 tỷ đồng, là bậc thầy trong việc thu hút đầu tư và tạo ra nguồn thu lớn cho quốc gia. Thủ đô không chỉ là trung tâm chính trị và văn hóa, mà còn là điểm đến hấp dẫn với doanh nghiệp và du khách.

Hải Phòng, với 137.136 tỷ đồng thu ngân sách, là cảng biển sầm uất và đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xuất nhập khẩu và phát triển kinh tế địa phương.

Quảng Ninh, với 79.646 tỷ đồng thu ngân sách, nổi tiếng với vịnh Hạ Long – một trong những kỳ quan thiên nhiên của thế giới, đã trở thành điểm đến hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nước.

Các tỉnh nhỏ hơn như Hà Nam, Nam Định và Thái Bình có mức thu ngân sách thấp hơn, nhưng đó là cơ hội để họ phát triển kinh tế và thu hút đầu tư để gia tăng nguồn thu trong tương lai.

Biểu đồ về thu ngân sách của khu vực Đồng bằng sông Hồng năm 2022 cho thấy sự đa dạng và tiềm năng phát triển của các tỉnh trong vùng. Đó là thước đo không chỉ về khả năng quản lý tài chính của các địa phương mà còn phản ánh sự phát triển kinh tế và xã hội toàn vùng.

Tỷ lệ đô thị hóa

Hiện nay, vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 174 đô thị gồm: 1 đô thị loại đặc biệt: Hà Nội, 1 thành phố là đô thị loại I trực thuộc trung ương: Hải Phòng, 3 thành phố là đô thị loại I trực thuộc tỉnh: Nam Định, Bắc Ninh, Hải Dương, 4 thành phố là đô thị loại II: Thái Bình, Vĩnh Yên, Ninh Bình, Phủ Lý.

Ngày 08/02/2023, Chính phủ ban hành Nghị quyết 14/NQ-CP, định hướng phát triển hệ thống đô thị vùng đồng bằng sông Hồng theo mô hình TOD bền vững và kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội hiện đại. Tỷ lệ đô thị hoá vùng Đồng bằng sông Hồng trong năm 2023 có xu hướng tiếp tục tăng cao, phản ánh sự di chuyển của dân số từ nông thôn vào thành thị. Thành phố Hà Nội, với vai trò là trung tâm chính trị và kinh tế, đóng góp nhiều nhất vào việc đô thị hoá vùng này. Các tỉnh lân cận như Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Ninh và Vĩnh Phúc cũng ghi nhận sự tăng trưởng dân số và hạ tầng đô thị.

Tuy nhiên, sự đô thị hoá cũng mang theo một số thách thức, bao gồm áp lực lên cơ sở hạ tầng và môi trường. Để đảm bảo sự phát triển bền vững của vùng Đồng bằng sông Hồng, cần đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng và quản lý đô thị hiệu quả. Quy hoạch đô thị cần được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo sự hài hòa giữa đô thị và nông thôn và bảo vệ di sản văn hóa và môi trường.

Mặc dù đô thị hoá mang đến nhiều cơ hội phát triển và tăng trưởng kinh tế, nhưng cũng cần có sự cân nhắc và điều chỉnh đúng đắn để đảm bảo sự phát triển bền vững và hài hòa của vùng Đồng bằng sông Hồng trong tương lai.

 

  Trên đây là những thông tin tổng quan về “Các chỉ số kinh tế quan trọng của vùng Đồng bằng Sông Hồng” do Sen Vàng Group cung cấp. Hy vọng với những thông tin trên giúp chủ đầu tư, nhà đầu tư và doanh nghiệp bất động sản có cái nhìn tổng quan về tình hình kinh tế của vùng. Ngoài ra để xem thêm các bài viết về vùng Đồng bằng Sông Hồng, anh chị, bạn đọc có thể truy cập trang web https://senvangdata.com.vn/.  

 

Xem thêm nội dung các bài viết liên quan R&D chính: Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực R&D

Xem thêm báo cáo thị trường các tỉnh, thành vùng ĐBSH: Báo cáo nghiên cứu thị trường Quận Tây Hồ

Khóa học R&D bạn không nên bỏ qua: https://nghiencuuphattrien.senvangdata.com/khoahock-2